Hiện tại, theo quy định hiện hành tại Việt Nam thì thời hạn được quy định cụa thể tại Bộ Luật dân sự năm 2015 (BLDS 2015). Theo quy định tại Điều 144, BLDS 2015 thì "Thời hạn là một khoảng thời gian được xác định từ thời điểm này đến thời điểm khác. Thời hạn có thể được xác định bằng phút, giờ, ngày, tuần, tháng, năm hoặc bằng một sự kiện có thể sẽ xảy ra". Trong thực tiễn, thời hạn luôn gắn với một quan hệ pháp luật cụ thể, mà tương ứng với khoản thời gian này sẽ có một chủ thể mang một hoặc một số nghĩa vụ nhất định. Và tương ứng cũng có những chủ thể có những quyền lợi do chủ thể kia mang lại. Trong khoảng thời gian này, có những quy định hay các thỏa thuận sẽ làm phát sinh, thay đổi hay chấm dứt một quan hệ pháp luật nhất định. Ví dụ, thời hạn để đăng ký khai sinh là 60 ngày. Khi đó, người có nghĩa vụ phải thực hiện đăng ký khai sinh cho trẻ nếu không sẽ bị xử phạt vi phạm hành chính.

          Cách tính thời hạn được quy định tại Điều 145 BLDS năm 2015 trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác. Thời hạn được tính theo dương lịch , trừ trường hợp có thỏa thuận khác. Trong một số trường hợp cụ thể, việc xác định thời hạn có thể được thực hiện theo thỏa thuận của các bên. Quy định này nhằm bảo đảm chó các chủ thể trong quan hệ pháp luật dân sự tự mình thỏa thuận việc lựa chọn thời hạn để bảo đảm thuận tiện trong việc thực hiện. Ví dụ, hợp đồng thuê đất nuôi trồng thủy sản, các bên thỏa thuận thời hạn theo mùa vụ để thuận tiện trong việc thải giống theo đúng mùa vụ. So với quy định tại BLDS năm 2005 thì BLDS năm 2015 có sự điều chỉnh cho phù hợp với thực tiễn, các bên có thể thỏa thuận áp dụng năm dương lịch hay âm lịch, nếu không có thỏa thuận khác thì áp dụng năm dương lịch.

          Thời điểm tính thời hạn được quy định tại Điều 146 BLDS năm 2015, theo đó: "Trường hợp các bên có thỏa thuận về thời hạn là một năm, nửa năm, một tháng, nửa tháng, một tuần, một ngày, một giờ, một phút mà khoảng thời gian diễn ra không liền nhau thì thời hạn đó được tính như sau:

          - Một năm là ba trăm sáu mươi lăm ngày;

          - Nửa năm là sáu tháng;

          - Một tháng là ba mươi ngày;

          - Nửa tháng là mười lăm ngày;

          - Một tuần là bảy ngày;

          - Một ngày là hai mươi tư giờ;

          - Một giờ là sáu mươi phút;

          - Một phút là sáu mươi giây.

          * Trường hợp các bên thỏa thuận về thời điểm đầu tháng, giữa tháng, cuối tháng thì thời điểm đó được quy định như sau:

          - Đầu tháng là ngày đầu tiên của tháng;

          - Giữa tháng là ngày thứ mười lăm của tháng;

          - Cuối tháng là ngày cuối cùng của tháng.

          * Trường hợp các bên thỏa thuận về thời điểm đầu năm, giữa năm, cuối năm thì thời điểm đó được quy định như sau:

          - Đầu năm là ngày đầu tiên của tháng một;

          - Giữa năm là ngày cuối cùng của tháng sáu;

          - Cuối năm là ngày cuối cùng của tháng mười hai".

          Nếu các bên thỏa thuận về thời hạn và khoảng thời gian không liền nhau thì có thể cộng dồn thời gian cho đủ với thời gian đã được thỏa thuận. Ví dụ, B thỏa thuận làm cho A một công việc trong 01 tuần mà thời gian thực hiện không liền nhau thì thời hạn B phải làm cộng dồn đủ 07 ngày.

          Nếu các bên thỏa thuận về thời hạn mà khoản thời gian liền nhau thì thời hạn được tính từ thời điểm bắt đầu cho đến kết thúc của thời hạn. Thời điểm bắt đầu thời hạn được xác định như sau: Khi thời hạn được xác định bằng phút, giờ thì thời hạn được bắt đầu từ thời điểm đã xác định; Khi thời hạn được xác định bằng ngày, tuần, tháng, năm thì ngày đầu tiên của thời hạn không được tính mà tính từ ngày tiếp theo liền kề ngày được xác định. Khi thời hạn bắt đầu bằng một sự kiện thì ngày xảy ra sự kiện không được tính mà tính từ ngày tiếp theo liền kề của ngày xảy ra sự kiện đó (Điều 147 BLDS năm 2015). Ví dụ, hợp đồng vay tài sản ký ngày 15/3/2021, thời hạn vay là 30 ngày thì ngày bắt đầu tính thời hạn là 0 giờ ngày 16/3/2021. Tuy nhiên, thực tiễn có trường hợp các bên lấy ngày để xác định thời hạn để tính luôn vào ngày để tính thời hạn là không đúng quy định của BLDS. Điển hình như ví dụ trên nếu lấy ngày 15/3/2021 để bắt đầu tính thời hạn là không đúng theo quy định.

          Thời điểm kết thúc thời hạn là thời điểm cuối cùng của thời hạn. Khi thời hạn tính bằng ngày thì thời hạn kết thúc tại thời điểm kết thúc ngày cuối cùng của thời hạn. Khi thời hạn tính bằng tuần thì thời hạn kết thúc tại thời điểm kết thúc ngày tương ứng của tuần cuối cùng của thời hạn. Điển hình, nếu các bên thỏa thuận thời hạn là 03 tuần kể từ thứ Sáu của tuần đầu tiên (06/8/2021) thì ngày kết thúc thời hạn sẽ là 0 giờ ngày 27/8/2021. Trường hợp hạn tính bằng tháng thì thời hạn kết thúc tại thời điểm kết thúc ngày tương ứng của tháng cuối cùng của thời hạn; nếu tháng kết thúc thời hạn không có ngày tương ứng thì thời hạn kết thúc vào ngày cuối cùng của tháng đó. Ví dụ, nếu thỏa thuận thời hạn là 02 tháng kể từ ngày 01/01/2021 thì thời hạn kết thúc sẽ là ngày 28/02/2021 (do tháng 02/2021 kết thúc vào ngày 28/2/2021). Khi thời hạn tính bằng năm thì thời hạn kết thúc tại thời điểm kết thúc ngày, tháng tương ứng của năm cuối cùng của thời hạn.

          Lưu ý: Khi ngày cuối cùng của thời hạn là ngày nghỉ cuối tuần hoặc ngày nghỉ lễ thì thời hạn kết thúc tại thời điểm kết thúc ngày làm việc tiếp theo ngày nghỉ đó. Thời điểm kết thúc ngày cuối cùng của thời hạn vào lúc hai mươi tư giờ của ngày đó (Điều 148 BLDS năm 2015).

          Thời hạn và việc xác định thời hạn đã được quy định cụ thể tại BLDS năm 2015 chính là căn cứ để các chủ thể tham gia vào quan hệ pháp luật dân sự thuận thiện khi thỏa thuận, giúp phòng tránh xảy ra tranh chấp không đáng có. Nó còn là căn cứ để xác định khi có tranh chấp xảy ra. 

         

 

Thanh Long