Tuy nhiên, pháp luật đã không dự liệu hết được những bất cập phát sinh trong các quan hệ pháp luật từ thực tiễn áp dụng pháp luật thi hành án và các văn bản pháp luật hướng dẫn thi hành. Điển hình cho nhũng bất cập này có thể kể đến là việc thi hành án đối với nghĩa vụ liên đới.
Theo quy định tại Điều 288 Bộ luật Dân sự năm 2015 thì nghĩa vụ liên đới là nghĩa vụ do nhiều người cùng phải thực hiện và bên có quyền có thể yêu cầu bất cứ ai trong số những người có nghĩa vụ phải thực hiện toàn bộ nghĩa vụ. Trường hợp một người đã thực hiện toàn bộ nghĩa vụ thì có quyền yêu cầu những người có nghĩa vụ liên đới khác phải thực hiện phần nghĩa vụ liên đới của họ đối với mình. Trường hợp bên có quyền đã chỉ định một trong số những người có nghĩa vụ liên đới thực hiện toàn bộ nghĩa vụ, nhưng sau đó lại miễn cho người đó thì những người còn lại cũng được miễn thực hiện nghĩa vụ. Trường hợp bên có quyền chỉ miễn việc thực hiện nghĩa vụ cho một trong số những người có nghĩa vụ liên đới không phải thực hiện phần nghĩa vụ của mình thì những người còn lại vẫn phải liên đới thực hiện phần nghĩa vụ của họ.
Trong thực tiễn thi hành Luật Thi hành án dân sự năm 2008 được sửa đổi, bổ sung năm 2014 (gọi tắt là: Luật thi hành án dân sự) và các văn bản hướng dẫn thi hành thi hành án đối với nghĩa vụ liên đới còn gặp nhiều khó khăn, bất cập, cụ thể:
Thứ nhất, quy định tổ chức thi hành án đối với nghĩa vụ liên đới. Tại Điều 11 Thông tư liên tịch số 11/2016/TTLT-BTP-TANDTC-VKSNDTC quy định: Trường hợp bản án, quyết định của Tòa án tuyên nghĩa vụ liên đới nhưng không xác định hoặc xác định rõ phần nghĩa vụ của từng người, thì trong quá trình tổ chức thi hành án, cơ quan thi hành án dân sự (THADS) có quyền yêu cầu một hoặc một số người bất kỳ có điều kiện thi hành án trong số những người phải thi hành án thực hiện toàn bộ nghĩa vụ liên đới. Người đã thực hiện thay phần nghĩa vụ thi hành án có quyền yêu cầu người có nghĩa vụ liên đới khác thanh toán lại phần nghĩa vụ mà người đó đã thực hiện thay cho họ theo quy định của pháp luật dân sự. Trường hợp người được thi hành án có ý kiến bằng văn bản đồng ý cho một hoặc một số người trong số những người phải thi hành nghĩa vụ liên đới không thi hành phần nghĩa vụ của họ thì phần nghĩa vụ không yêu cầu thi hành án được đình chỉ theo quy định. Theo quy định này thì có thể hiểu rằng, trong trường hợp thi hành nghĩa vụ liên đới thì một hoặc một số người trong số những người phải thi hành án đã thi hành xong phần nghĩa vụ của mình mà có điều kiện thi hành thì chấp hành viên vẫn có quyền yêu cầu họ phải thi hành phần nghĩa vụ thay cho người khác (người không có điều kiện thi hành án) trường hợp người phải thi hành án không tự nguyện thi hành thì có thể bị áp dụng các biện pháp cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 46 Luật Thi hành án dân sự.
Việc thực hiện quy định này trong thực tiễn tổ chức thi hành án sẽ gặp rất nhiều khó khăn, đặc biệt đối với các bản án, quyết định đã xác định rõ nghĩa vụ của từng người. Khi người phải thi hành án đã thi hành xong nghĩa vụ của mình theo bản án thì để họ tiếp tục thực hiện tiếp phần nghĩa vụ của người khác là rất khó khăn. Việc yêu cầu một hoặc một số người bất kỳ có điều kiện thi hành án trong số những người phải thi hành án thực hiện toàn bộ nghĩa vụ liên đới thường chỉ có thể thực hiện được nếu họ tự nguyện thi hành thay cho người khác. Nếu họ không tự nguyện thi hành thay thì rất khó có thể thực hiện trên thực tế vì họ đã thực hiện xong phần nghĩa vụ của mình.Trong những trường hợp này, người phải thi hành án thường không tự nguyện thi hành, thậm chí còn có thể chống đối việc thi hành án. Mặt khác, một vấn đề đặt ra là sau khi một người đã thực hiện thay phần nghĩa vụ thi hành án cho những người khác thì người đó sẽ yêu cầu những người khác hoàn lại như thế nào để bảo đảm quyền lợi của họ khi người được thi hành thay không hề có điều kiện thi hành án.
Thứ hai, quy định việc đình chỉ thi hành án liên quan đến nghĩa vụ liên đới. Theo quy định tại khoản 1 Điều 50 Luật Thi hành án dân sự quy định thì: Thủ trưởng cơ quan THADS phải ra quyết định đình chỉ thi hành án trong trường hợp người phải thi hành án chết không để lại di sản hoặc theo quy định của pháp luật nghĩa vụ của người đó theo bản án, quyết định không được chuyển giao cho người thừa kế. Việc đình chỉ thi hành án trong trường hợp người phải thi hành án thi hành nghĩa vụ liên đới bị chết còn có nhiều quan điểm khác nhau. Nếu trường hợp một trong số những người có nghĩa vụ liên đới chết mà không để lại tài sản và cũng không có người thừa kế thì không có căn cứ để đình chỉ thi hành án vì nghĩa vụ đó vẫn có người liên đới có trách nhiệm thực hiện. Mặc khác, quan điểm khác cho rằng vẫn đình chỉ được việc thi hành án đối với nghĩa vụ của người phải thi hành án mà bản án, quyết định đã xác định nghĩa vụ của từng người, còn đối với trường hợp nghĩa vụ liên đới không phân chia được theo phần thì không đình chỉ thi hành án được.
Thứ ba, quy định ủy thác thi hành án đối với nghĩa vụ liên đới. Theo Điều 55 Luật Thi hành án dân sự, trường hợp thi hành nghĩa vụ liên đới mà người phải thi hành án cư trú hoặc có tài sản ở các địa phương khác nhau thì thủ trưởng cơ quan THADS ủy thác toàn bộ nghĩa vụ thi hành án đến cơ quan THADS thuộc một trong các địa phương nơi người phải thi hành án có điều kiện thi hành. Trường hợp những người phải thi hành nghĩa vụ liên đới có tài sản ở nhiều nơi, cơ quan THADS thực hiện ủy thác theo thứ tự để lựa chọn gồm: nơi ủy thác thi hành án theo thỏa thuận của đương sự; nơi có tài sản đủ để thi hành án; trường hợp tài sản không đủ để thi hành án thì ủy thác đến nơi có tài sản giá trị lớn nhất; nơi có nhiều tài sản nhất (quy định tại khoản 2 Điều 16 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP). Trường hợp ủy thác thi hành nghĩa vụ liên đới mà người phải thi hành án cư trú hoặc có tài sản ở nhiều địa phương khác nhau mà tài sản ở địa phương nhận ủy thác không đủ để thi hành án thì cơ quan THADS nơi nhận ủy thác có quyền áp dụng các biện pháp bảo đảm thi hành án đối với tất cả những người, tài sản có liên quan đến việc thi hành án để tránh trường hợp tẩu tán, trốn tránh việc thi hành án (Điều 34 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP). Tuy nhiên, việc xác định được nơi có điều kiện thi hành án vẫn còn có nhiều khó khăn và mất nhiều thời gian do việc xác minh điều kiện thi hành án phải tiến hành ở nhiều địa phương khác nhau. Việc lựa chọn nơi để ủy thác đối với các trường hợp nhiều người cùng liên đới thực hiện nghĩa vụ cũng gặp vướng mắc do chưa có quy định cụ thể trong việc xác định giá trị tài sản cũng như chi phí cho việc xác định giá trị tài sản đối với các trường hợp này.
Thứ tư, quy định việc xác nhận kết quả thi hành án đối với trường hợp thi hành nghĩa vụ liên đới. Theo quy định tại Điều 53 Luật Thi hành án dân sự thì: “đương sự có quyền yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự xác nhận kết quả thi hành án”. Tuy nhiên, trong thực tế có trường hợp thi hành nghĩa vụ liên đới mà một người đã thi hành toàn bộ nghĩa vụ cho những người còn lại thì việc xác nhận kết quả thi hành án đối với các đối tượng còn lại sẽ được thực hiện như thế nào cho phù hợp. Nếu cơ quan thi hành án chỉ ra quyết định thi hành án đối với một người trong số những người có nghĩa vụ liên đới sẽ không có căn cứ làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của những người có nghĩa vụ liên đới còn lại.
Có thể thấy, pháp luật thi hành án vẫn còn có những hạn chế, bất cập cần phải được hoàn thiện để dễ dàng áp dụng trong thực tiễn thi hành án nói chung và đối với việc thi hành án đối với nghĩa vụ liên đới./.
Thanh Long