Thông tư số 05/2021/TT-BTP được ban hành để thay thế hai Thông tư: Thông tư số 17/2011/TT-BTP ngày 14/10/2011 hướng dẫn một số quy định của Luật Luật sư, Nghị định hướng dẫn thi hành các quy định của Luật Luật sư và Thông tư số 02/2015/TT-BTP ngày 16/01/2015 quy định một số mẫu giấy tờ về luật sư và hành nghề luật sư.

Thông tư số 05/2021/TT-BTP gồm: 07 Chương và 28 Điều (đã bãi bỏ 09 Điều của Thông tư số 17/2011/TT-BTP, giữ nguyên 04 Điều và sửa đổi, bổ sung 24 Điều của Thông tư số 17/2011/TT-BTP và Thông tư số 02/2015/TT-BTP), có những điểm mới như sau:

*Thứ nhất, quy định về luật sư

Tại Thông tư số 05/2021/TT-BTP các quy định về luật sư cơ bản đã kế thừa các nội dung đang quy định tại Thông tư số 17/2011/TT-BTP về Công nhận đào tạo nghề luật sư ở nước ngoài, Giấy tờ miễn đào tạo, miễn giảm thời gian tập sự, Thu hồi và Cấp lại Chứng chỉ hành nghề luật sư. Trong đó, đối với việc công nhận đào tạo nghề luật sư ở nước ngoài, quy định mới đã bổ sung phương thức nộp hồ sơ trực tuyến để thêm kênh nộp hồ sơ trên Cổng dịch vụ công Bộ Tư pháp, tạo thuận lợi hơn cho người đã được đào tạo nghề luật sư ở nước ngoài được công nhận tương đương tại Việt Nam.

Đối với thu hồi Chứng chỉ hành nghề luật sư: Thông tư 05/2021/TT-BTP bổ sung đầy đủ các trường hợp thu hồi Chứng chỉ hành nghề luật sư để phù hợp với Luật Luật sư sửa đổi, bổ sung năm 2012. Thủ tục thu hồi Chứng chỉ được quy định chặt chẽ hơn, theo đó, Đoàn Luật sư, cơ quan, tổ chức có văn bản đề nghị thu hồi gửi kèm theo giấy tờ chứng minh luật sư thuộc trường hợp bị thu hồi Chứng chỉ để bảo đảm việc thu hồi đúng đối tượng, đủ căn cứ. Hằng năm, Sở Tư pháp, Liên đoàn Luật sư Việt Nam rà soát người thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 18 của Luật Luật sư để đề nghị Bộ trưởng Bộ Tư pháp thu hồi Chứng chỉ hành nghề luật sư.

Đối với việc cấp lại Chứng chỉ hành nghề luật sư: qua thực tiễn áp dụng cho thấy, quy định tại Điều 19 của Luật Luật sư và Điều 4 của Thông tư số 17/2011/TT-BTP còn có vướng mắc cần hướng dẫn thống nhất phù hợp với quy định của Luật Luật sư nên Thông tư số 05/2021/TT-BTP đã quy định rõ hơn biện pháp thi hành thủ tục cấp lại tại khoản 5 Điều 19 của Luật Luật sư. Theo đó, người đạt yêu cầu kiểm tra kết quả tập sự thì nộp hồ sơ cấp lại từ Đoàn Luật sư đến Sở Tư pháp, đến Bộ Tư pháp; người được miễn tập sự hành nghề luật sư thì hồ sơ nộp từ Sở Tư pháp đến Bộ Tư pháp.

*Thứ hai, quy định về tổ chức hành nghề luật sư Việt Nam và nước ngoài hành nghề tại Việt Nam

Theo quy định tại Điều 5 Thông tư số 17/2011/TT-BTP về thực hiện dịch vụ pháp lý, luật sư thực hiện dịch vụ pháp lý theo hợp đồng hoặc phiếu thỏa thuận, quy định về trách nhiệm thanh lý hợp đồng,… Thông tư số 05/2021/TT-BTP đã bãi bỏ quy định về nội dung này, như vậy, việc cung cấp dịch vụ pháp lý thực hiện theo quy định tại Điều 26 Luật Luật sư và quy định pháp luật khác có liên quan.

Đối với tổ chức hành nghề luật sư Việt Nam, Thông tư mới quy định rõ luật sư làm việc theo hợp đồng chỉ được làm trưởng chi nhánh của một chi nhánh của một tổ chức hành nghề luật sư; việc thành lập, tạm ngừng, chấm dứt hoạt động của văn phòng giao dịch của tổ chức hành nghề luật sư cũng được quy định đầy đủ để thuận tiện trong việc áp dụng.

Đối với tổ chức hành nghề luật sư nước ngoài và luật sư nước ngoài hành nghề tại Việt Nam, Thông tư số 05/2021/TT-BTP dẫn chiếu các quy định về cấp lại Giấy phép thành lập chi nhánh, công ty luật nước ngoài; Giấy đăng ký hoạt động của chi nhánh, công ty luật nước ngoài; Giấy phép hành nghề tại Việt Nam của luật sư nước ngoài được thực hiện theo các quy định tương ứng của Luật Luật sư về cấp lần đầu, để có cơ sở cho tổ chức, luật sư nước ngoài hành nghề tại Việt Nam thực hiện.

*Thứ ba, hướng dẫn công tác Đại hội của Đoàn Luật sư và Liên đoàn Luật sư Việt Nam

Kế thừa các nội dung quy định về Đại hội của Đoàn Luật sư và Liên đoàn Luật sư Việt Nam trong Thông tư số 17/2011/TT-BTP, Thông tư số 05/2021/TT-BTP đã bổ sung quy định để hoàn thiện các nội dung chủ yếu về Đề án tổ chức đại hội như: Đề án nhân sự, phương án xây dựng nhân sự, kịch bản Đại hội, kịch bản điều hành Đại hội và phương thức làm việc. Ngoài ra, Thông tư cũng đã chỉnh sửa một số cụm từ để phù hợp với quy định của Luật Luật sư và Nghị định số 137/2018/NĐ-CP ngày 08/10/2018 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 123/2013/NĐ-CP ngày 14/10/2013 quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Luật sư.

*Thứ tư, bãi bỏ chế độ báo cáo 6 tháng, mẫu hóa các sổ sách, giấy tờ trong tổ chức, hoạt động luật sư

Thông tư số 05/2021/TT-BTP quy định chế độ báo cáo hằng năm đối với tổ chức hành nghề luật sư Việt Nam, luật sư hành nghề với tư cách cá nhân, tổ chức hành nghề luật sư nước ngoài tại Việt Nam. Đối với hoạt động 6 tháng, tổ chức hành nghề luật sư Việt Nam thực hiện việc cập nhật số liệu về tổ chức, hoạt động theo biểu mẫu ban hành kèm theo Thông tư số 03/2019/TT-BTP ngày 20/3/2019 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp quy định một số nội dung về hoạt động thống kê của Ngành Tư pháp. Hình thức báo cáo và thời gian chốt số liệu thực hiện theo Thông tư số 12/2019/TT-BTP ngày 31/12/2019 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp quy định về chế độ báo cáo định kỳ thuộc phạm vi quản lý của Bộ Tư pháp. Ngoài ra, tổ chức hành nghề luật sư Việt Nam gửi báo cáo về tổ chức, hoạt động của chi nhánh về Đoàn Luật sư và Sở Tư pháp nơi có trụ sở chi nhánh; tổ chức hành nghề luật sư nước ngoài tại Việt Nam gửi báo cáo về tổ chức, hoạt động của chi nhánh về Sở Tư pháp nơi có trụ sở chi nhánh.

Đối với mẫu sổ sách, giấy tờ trong tổ chức, hoạt động luật sư theo Thông tư số 02/2015/TT-BTP, Thông tư số 05/2021/TT-BTP đã sửa đổi, bổ sung một số mẫu giấy tờ và bổ sung nội dung trong một số mẫu giấy tờ hiện hành nhằm tạo thuận lợi cho các cá nhân, tổ chức hành nghề luật sư, tổ chức xã hội nghề nghiệp của luật sư và phục vụ tốt hơn cho công tác quản lý nhà nước ở Trung ương và địa phương, nhất là mẫu Đơn đề nghị cấp Chứng chỉ hành nghề luật sư, được bổ sung thông tin cần thiết liên quan đến nhân thân và quá trình công tác của người nộp đơn nhằm đáp ứng yêu cầu cung cấp thông tin đầy đủ, chính xác, phục vụ công tác thẩm tra hồ sơ, sàng lọc chất lượng đầu vào của nghề luật sư.

Ngoài ra, đối với tổ chức hành nghề luật sư nước ngoài tại Việt Nam, thực hiện việc cập nhật tình hình luật sư nước ngoài hiện đang làm việc hoặc khi có thay đổi về nhân sự để Sở Tư pháp ghi nhận vào mẫu phụ lục đính kèm Giấy đăng ký hoạt động của chi nhánh, công ty luật nước ngoài./.

 

Trần Giang