Đối với một người bình thường có đầy đủ năng lực hành vi dân sự, khi họ xác lập, thực hiện các giao dịch thì họ sẽ không gặp quá nhiều khó khăn. Tuy nhiên, đối với những người bị mất năng lực hành vi dân sự, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự hoặc người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi thì họ không thể tự mình tham gia xác lập, thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự bằng hành vi của mình được mà phải thông qua người đại diện theo pháp luật hoặc người giám hộ xác lập, thực hiện.
Về mặt pháp lý thì giữa người mất năng lực hành vi dân sự, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi có những đặc điểm khác nhau mà Bộ luật dân sự năm 2015 đã quy định để chúng ta có thể nhận dạng, phân biệt được từng đối tượng cụ thể.
* Người mất năng lực hành vi dân sự là:
1. Khi một người do bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi thì theo yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan hoặc của cơ quan, tổ chức hữu quan, Tòa án ra quyết định tuyên bố người này là người mất năng lực hành vi dân sự trên cơ sở kết luận giám định pháp y tâm thần.
Khi không còn căn cứ tuyên bố một người mất năng lực hành vi dân sự thì theo yêu cầu của chính người đó hoặc của người có quyền, lợi ích liên quan hoặc của cơ quan, tổ chức hữu quan, Tòa án ra quyết định hủy bỏ quyết định tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự.
2. Giao dịch dân sự của người mất năng lực hành vi dân sự phải do người đại diện theo pháp luật xác lập, thực hiện.
Nếu như trước đây Bộ luật dân sự năm 2005 chỉ quy định về người mất năng lực hành vi dân sự và người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự thì đến Bộ luật dân sự năm 2015 đã bổ sung thêm nhóm “Người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi” nhằm bảo vệ tốt nhất quyền con người, quyền công dân theo tinh thần của Hiến pháp năm 2013, bởi trên thực tế những người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi thường tập trung chủ yếu vào nhóm người cao tuổi, trí nhớ kém, dễ quên hay nhóm người khuyết tật, họ bị khiếm khuyết một hoặc một số bộ phận nào đó trên cơ thể làm ảnh hưởng đến khả năng nhận thức và làm chủ hành vi của những nhóm người này, nhưng họ lại không thuộc trường hợp bị mất hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự và nếu buộc họ phải chịu trách nhiệm như một người có năng lực hành vi dân sự đầy đủ thì sẽ không thể đảm bảo được sự công bằng về quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể trong quan hệ dân sự. Vì thế, việc bổ sung nhóm người này vào trong luật có ý nghĩa rất lớn góp phần bảo vệ tối đa quyền và lợi ích hợp pháp cho những người yếu thế trong xã hội.
* Người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi là:
1. Người thành niên do tình trạng thể chất hoặc tinh thần mà không đủ khả năng nhận thức, làm chủ hành vi nhưng chưa đến mức mất năng lực hành vi dân sự thì theo yêu cầu của người này, người có quyền, lợi ích liên quan hoặc của cơ quan, tổ chức hữu quan, trên cơ sở kết luận giám định pháp y tâm thần, Tòa án ra quyết định tuyên bố người này là người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi và chỉ định người giám hộ, xác định quyền, nghĩa vụ của người giám hộ.
2. Khi không còn căn cứ tuyên bố một người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi thì theo yêu cầu của chính người đó hoặc của người có quyền, lợi ích liên quan hoặc của cơ quan, tổ chức hữu quan, Tòa án ra quyết định hủy bỏ quyết định tuyên bố người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi.
* Người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự:
1. Người nghiện ma túy, nghiện các chất kích thích khác dẫn đến phá tán tài sản của gia đình thì theo yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan hoặc của cơ quan, tổ chức hữu quan, Tòa án có thể ra quyết định tuyên bố người này là người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự.
Tòa án quyết định người đại diện theo pháp luật của người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự và phạm vi đại diện.
2. Việc xác lập, thực hiện giao dịch dân sự liên quan đến tài sản của người bị Tòa án tuyên bố hạn chế năng lực hành vi dân sự phải có sự đồng ý của người đại diện theo pháp luật, trừ giao dịch nhằm phục vụ nhu cầu sinh hoạt hàng ngày hoặc luật liên quan có quy định khác.
3. Khi không còn căn cứ tuyên bố một người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự thì theo yêu cầu của chính người đó hoặc của người có quyền, lợi ích liên quan hoặc của cơ quan, tổ chức hữu quan, Tòa án ra quyết định hủy bỏ quyết định tuyên bố hạn chế năng lực hành vi dân sự./.
Hạnh Nguyên