http://ubmttq.camau.gov.vn

Hoạt động của các mô hình tự quản này có sức ảnh hưởng và tác động tích cực đến quá trình thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, kết nối tạo sự đồng thuận trong cộng đồng dân cư. Tuy nhiên, không phải mô hình nào cũng tồn tại và phát huy hiệu quả, có không ít mô hình được hình thành không lâu thì không duy trì được về tính hiệu quả, mức độ tồn tại không nhiều. Điều đó cho thấy nếu hình thành theo kiểu phong trào thì dẫn đến nguy cơ kém hiệu quả, gây lãng phí. Vì vậy, khi nghiên cứu và xây dựng “mô hình tổ nhân dân tự quản” đảm bảo an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội tại tỉnh Cà Mau cần có những nghiên cứu toàn diện những vấn đề lý luận, pháp lý và thực trạng để xây dựng luận cứ khoa học định hướng cho sự tồn tại và phát triển đối với mô hình này trong điều kiện hiện nay là sự cần thiết.

1. Mô hình tự quản tại cộng đồng dân cư, vấn đề nhận thức lý luận

Cộng đồng dân cư là cộng đồng người sinh sống trên cùng địa bàn ấp, khóm hoặc điểm dân cư tương tự. Vị trí, vai trò, tầm quan trọng của vấn đề gắn kết cộng đồng của cộng đồng dân cư trong đời sống xã hội là vấn đề đã được nghiên cứu và khẳng định về tính hiệu quả, tính giá trị mang lại trong đời sống cộng đồng. Tính hiệu quả, và giá trị mang lại từ việc gắn kết cộng đồng của cộng đồng dân cư đã trực tiếp tác động đến việc nhà nước bảo vệ toàn diện các quyền con người như: bảo vệ sức khỏe người dân, bảo đảm người dân được sống trong môi trường an toàn, trong lành như Luật Bảo vệ môi trường năm 2020, Luật an ninh trật tự cơ sở năm 2023, Luật đất đai 2024… đã xác định vai trò cộng đồng dân cư và đã đưa vào phạm vi điều chỉnh và đối tượng áp dụng của luật.

Huy động được sự đồng thuận và tích cực tham gia của cộng đồng dân cư thông qua mô hình dân cư tự quản trên mọi lĩnh vực, phát huy vai trò giám sát, phản biện, đồng thời đảm bảo quyền và lợi ích của cộng đồng dân cư khi tham gia các hoạt động, đã trở thành nhu cầu đòi hỏi mang tính tất yếu từ đời sống xã hội, đã và đang đặt ra với mục tiêu phát huy quyền làm chủ của người dân và vấn đề thực hiện mục tiêu dân chủ cơ sở hiện nay. Hiệu ứng hoạt động mô hình “Tổ Nhân dân tự quản” khi được nghiên cứu và thực hiện sẽ khơi dậy và thúc đẩy các phong trào thi đua yêu nước, nâng cao ý thức tự chủ, tự quản nơi cộng đồng khu dân cư, là cầu nối để kết nối "Ý Đảng - lòng dân" hiện nay.

2. Chủ trương của Đảng về mô hình tự quản tại cộng đồng dân cư

Thực hiện Chỉ thị số 30/CT-TW ngày 18/2/1998 của Bộ Chính trị về xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở, yêu cầu tăng cường công tác quản lý nhà nước đối với việc xây dựng và thực hiện hương ước, quy ước. Chỉ thị nêu rõ: “Mở rộng các hình thức tổ chức tự quản để nhân dân, công nhân, cán bộ, công chức tự bàn bạc và thực hiện trong khuôn khổ pháp luật những công việc mang tính xã hội hoá, có sự hỗ trợ của chính quyền, cơ quan, đơn vị (như việc xây dựng hương ước, quy ước làng văn hoá, xây dựng tổ hoà giải, tổ an ninh, phong trào vệ sinh - môi trường, đền ơn đáp nghĩa, giúp đỡ người nghèo…)”.

Nghị quyết số 18-NQ/TW ngày 25/10/2017 hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XII) đã yêu cầu: “Tiếp tục xây dựng, hoàn thiện mô hình tự quản ở cộng đồng dân cư thôn, tổ dân phố dưới sự chủ trì của Mặt trận Tổ quốc và bảo đảm sự lãnh đạo của cấp ủy đảng, sự quản lý của chính quyền”.

Nghị định số 06/2014/NĐ-CP ngày 21/01/2014 của Chính phủ về biện pháp vận động quần chúng bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội; tại Nghị định này không quy định chế độ trợ cấp cho tổ an ninh tự quản hoạt động tại các xã, phường. Như vậy, có thể thấy, hiện nay chỉ có chủ trương của Đảng, quy định pháp luật thì do nhu cầu từng địa phương ban hành quy định về tổ chức, hoạt động và kinh phí đảm bảo cho hoạt động tổ nhân dân tự quản.

3. Thực tiễn hoạt động mô hình tự quản tại cộng đồng dân cư

Xuất phát từ việc chủ động trong thực hiện nhiệm vụ, và xác định vị trí, vai trò mô hình tự quản đã góp phần quan trọng vào việc thực hiện nhiệm vụ chính trị của các địa phương; xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc trên địa bàn dân cư; thực hiện dân chủ ở cơ sở và thực hiện có kết quả các phong trào thi đua yêu nước, các cuộc vận động do Mặt trận Tổ quốc chủ trì và thực hiện với mục tiêu “nâng cao ý thức tự chủ, tự quản nơi cộng đồng khu dân cư”, nhiều địa phương đã vận động hình thành các mô hình như:

(1) Tỉnh Lâm Đồng: năm 2019 có 1.541 thôn, tổ dân phố nhưng có tới 1.012 mô hình tự quản ở khu dân cư. Trong đó, có 511 mô hình tự quản lĩnh vực an ninh trật tự, 402 mô hình tự quản lĩnh vực kinh tế, 98 mô hình tự quản lĩnh vực bảo vệ môi trường; 71 mô hình tự quản lĩnh vực văn hóa xã hội, 30 mô hình tự quản các lĩnh vực khác2

(2) Tỉnh Gia Lai: năm 2022 toàn tỉnh có 1.453 mô hình tự quản trong đồng bào dân tộc thiểu số, trong đó có 1034 mô hình tự quản về an ninh chính trị, an ninh nông thôn; 59 mô hình tự quản về kinh tế; 261 mô hình tự quản về văn hóa, xã hội; 61 mô hình tự quản về an toàn giao thông; 2 mô hình tự quản về bảo vệ môi trường; 36 mô hình tự quản bảo vệ cột mốc biên giới, tàu thuyền3

(3) Tỉnh Phú Yên: năm 2022, có 1.167 mô hình tự quản; trong đó, ở thôn, buôn có 974 mô hình, ở khu phố có 193 mô hình. Hầu hết mô hình tự quản do ban công tác mặt trận, các đoàn thể chính trị - xã hội và một số ngành liên quan phối hợp thực hiện. Các khu dân cư xây dựng mô hình tự quản thường gắn với thực hiện 5 nội dung của cuộc vận động Toàn dân đoàn kết xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh4… 

Có thể thấy, việc hình thành các mô hình tự quản rất đa dạng, phong phú, xuất hiện trên tất cả các mặt kinh tế, xã hội, an ninh, quốc phòng tại địa phương. Theo đánh giá, thì mhiều mô hình hoạt động có hiệu quả, đặc biệt là các mô hình tự quản về an ninh, trật tự. Riêng tỉnh Đăk Nông, mô hình “tự quản an ninh, trật tự” được Bộ Công an công nhận là điển hình và được nhân rộng ra cả nước góp phần không nhỏ duy trì trật tự, trị an tại các địa phương. Các mô hình khác được triển khai ở nhiều khu dân cư đem lại hiệu quả tích cực cho phát triển sinh kế của các hộ dân tham gia.

Quá trình thành lập xây dựng tổ Nhân dân tự quản, bước đầu còn gặp một số khó khăn như: người dân tham gia họp tổ Nhân dân tự quản còn ít; một số địa bàn chưa vận động được nhân sự để bầu Tổ trưởng, Tổ phó, do người dân sợ ảnh hưởng đến công việc, sinh hoạt của gia đình... Tuy nhiên, sau khi được trao đổi, hướng dẫn cụ thể về hoạt động, phần lớn Tổ trưởng, Tổ phó đều rất đồng tình ủng hộ, với lý do: Số hộ ít nên dễ nắm bắt tình hình, ít tốn thời gian đi lại; các hoạt động được quy định cụ thể, “nhẹ nhàng”, tùy thuộc vào điều kiện thực tế để tiến hành, nên không có sự gò bó, bắt buộc.

Hiện tại, một số tổ Nhân dân tự quản đã kết nối các hộ gia đình trong tổ với nhau thông qua việc lập danh bạ điện thoại, lập nhóm trên Zalo để chia sẻ các thông tin về an ninh, trật tự… Đây là cơ sở ban đầu để các hộ gia đình trong tổ cùng hướng tới các hoạt động tự phòng, tự quản, tự bảo vệ và tự hòa giải; góp phần phòng, chống tội phạm, tệ nạn xã hội, xây dựng phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc tại địa bàn cư trú.

Hiệu ứng tích cực từ chủ trương này cho thấy, mô hình tổ Nhân dân tự quản đã khơi dậy và thúc đẩy các phong trào thi đua yêu nước, nâng cao ý thức tự chủ, tự quản nơi cộng đồng khu dân cư, giúp cho cấp ủy, chính quyền địa phương kịp thời triển khai, nắm bắt, giải quyết kiến nghị, đề xuất của dân, góp phần tạo sự gần gũi, gắn bó, củng cố thêm niềm tin giữa nhân dân với Đảng, phát huy mạnh mẽ khối đại đoàn kết dân tộc; duy trì và phát huy hiệu quả hoạt động tổ Nhân dân tự quản là phương pháp hữu hiệu nhất để giúp Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội thực hiện tốt vai trò là nhịp cầu kết nối Đảng, chính quyền và nhân dân.

4. Về khó khăn thách thức

Từ kết quả nghiên cứu, đánh giá thực tiễn về tổ chức, hoạt động mô hình “tổ Nhân dân tự quản” của các tỉnh và thực trạng tại tỉnh Cà Mau cho thấy còn một số khó khăn, thách thức như sau:

Một là, các mô hình tự quản chủ yếu ra đời dưới sự vận động của chính quyền hoặc các tổ chức đoàn thể, không có nhiều mô hình tự quản hình thành tự nguyện, tự giác từ chính yêu cầu của người dân. Do đó, hoạt động của các mô hình tự quản có sự lệ thuộc vào sự hỗ trợ, hướng dẫn của các cơ quan, tổ chức này; chưa bảo đảm tính tự nguyện, tự giác của những người tham gia. Yếu tố này tác động đến chất lượng, hiệu quả hoạt động và sự tồn tại khi thành lập.

Hai là, việc xây dựng mô hình tự quản của nhiều lĩnh vực được xem như thành tích của ngành, của chính quyền dẫn đến mang tính hình thức, có sự trùng lặp về nội dung như: một việc có nhiều mô hình cùng làm, một người tham gia nhiều mô hình; một mô hình do nhiều tổ chức chỉ đạo... dẫn đến việc thiếu nhất quán.

Ba là, về cơ chế quản lý chưa được quy định cụ thể rõ ràng. Có nơi, chính quyền can thiệp quá sâu vào công việc có tính tự quản của cộng đồng, hành chính hóa việc quản lý dẫn đến các mô hình tự quản nhưng không bảo đảm tính tự quản mà biến thành biện pháp thực hiện các nhiệm vụ chính trị của chính quyền và các tổ chức đoàn thể trên địa bàn.

Bốn là,  Theo lý thuyết, mô hình tự quản dựa trên sự tự nguyện, tự giác, thậm chí tự chủ (cả về kinh phí). Thực tiễn mô hình tự quản tồn tại là nhờ vào sự hỗ trợ kinh phí từ chính quyền hoặc các tổ chức. Nếu không có sự hỗ trợ này thì sẽ tan rã. Điều này, dẫn đến tâm lý “ỷ lại” vào sự hỗ trợ, có kinh phí thì hoạt động, không có kinh phí không hoạt động.

Năm là, việc xây dựng và hoạt động của các mô hình chưa gắn với đặc trưng văn hóa, xã hội của từng khu vực như: khu vực thuộc địa bàn nông thôn, địa bàn đô thị, địa bàn phức tạp về quốc phòng an ninh; địa bàn ven biển và trên biển..

Sáu là, chưa nghiên cứu và huy động nhóm người được công nhận là người có uy tín trong cộng đồng dân cư tham gia vào hoạt động này.

Bảy là: Nhiệm vụ, mục tiêu, nội dung hoạt động thiếu cụ thể, còn nhiều mâu thuẫn dẫn đến hoạt động bị rối loạn, thiếu sáng tạo về cách làm và thiếu chuyên môn nghiệp vụ cơ bản như: Vận động quần chúng, công khai, minh bạch… từ đó, khó xây dựng lòng tin trong cộng đồng dân cư.

5. Bài học kinh nghiệm từ thực tiễn cần tham khảo

Thực tế các tổ chức tự quản cho thấy một số vấn đề đang đặt ra như sau:

Một là, khi các tổ chức tự quản có quyền quyết định mọi vấn đề của mình, vậy vai trò lãnh đạo của các tổ chức đảng đối với các tổ chức tự quản làm thế nào, thông qua hình thức, cơ chế gì? 

Hai là, làm thế nào thực hiện dân chủ một cách thực chất hơn trong hoạt động của tổ chức tự quản: Dân chủ trong bầu cử, dân chủ trong quyết định, dân chủ trong quản lý, dân chủ trong giám sát?

Ba là, làm thế nào để kết nối hoạt động giữa chính quyền cơ sở với các tổ chức tự quản cho hiệu quả, trong khi về mặt pháp lý các tổ chức tự quản không trực thuộc quyền quản lý của chính quyền cơ sở?

Qua nghiên cứu, có thể rút ra một số bài học kinh nghiệm tham khảo như sau:

Thứ nhất, tự quản xã hội là hình thức thực hành dân chủ cơ sở có trật tự, có tác động tích cực đến xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Thông qua các hình thức tổ chức tự quản, chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật của nhà nước được chuyển tới người dân, đồng thời các tổ chức tự quản xã hội cũng là kênh phản hồi ý chí, nguyện vọng của người dân tới chính quyền, bộ máy nhà nước. Các tổ chức tự quản góp phần giảm nhẹ công việc quản lý của chính quyền cơ sở, phát huy tính năng động, sáng tạo, linh hoạt của cộng đồng dân cư tham gia vào công tác quản lý xã hội chính nơi mình sinh sống. Từ đó, tự quản xã hội góp phần hình thành ý thức dân chủ, thực hành dân chủ rộng rãi trong cộng đồng dân cư, là môi trường đào tạo thực hành dân chủ trong xã hội. Từ thực tiễn có thể khẳng định, tự quản xã hội là hình thức thực hành dân chủ có lợi cho việc xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, cần tạo điều kiện cho hình thức này phát triển.

Thứ hai, xây dựng tự quản xã hội đòi hỏi phải triển khai từng bước tương ứng với cải cách và phát triển kinh tế. Tự quản xã hội là tất yếu, song lại tương ứng với mức độ phát triển kinh tế. Xây dựng và hình thành các tổ chức tự quản xã hội là một quá trình, là kết quả tất yếu từ những cải cách kinh tế và biến đổi xã hội hiện nay. Quy luật chung là khi xã hội càng phát triển, kết cấu kinh tế càng phức tạp; tính đa dạng, phong phú và thường xuyên biến đổi của đời sống xã hội tất yếu đòi hỏi các hình thức tự quản của cộng đồng dân cư, vừa giảm nhẹ công việc cho bộ máy nhà nước, vừa linh hoạt, thích ứng phù hợp với nhu cầu hết sức đa dạng và hay biến đổi của cộng đồng dân cư. Do đó, xây dựng tự quản xã hội là kết quả tất yếu của cải cách kinh tế, phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế, phát triển của xã hội trong một thời kỳ nhất định.

Thứ ba, để xây dựng, phát triển tự quản xã hội có hiệu quả, cần tạo lập khuôn khổ pháp lý cho sự tồn tại, phát triển của các hình thức tự quản xã hội. Xây dựng một hệ thống khuôn khổ pháp lý cho sự hình thành, nguyên tắc hoạt động của các tổ chức tự quản xã hội một cách có hệ thống và các chính sách, trợ cấp tài chính thúc đẩy các tổ chức tự quản xã hội. Đây là kinh nghiệm thực tiễn cần tham khảo và lựa chọn mức độ thừa nhận các tổ chức tự quản trên các văn bản quy phạm pháp luật.

Thứ tư, xây dựng, phát triển các tổ chức tự quản xã hội cần có sự lãnh đạo của đảng, sự quản lý của nhà nước. Quá trình xây dựng, phát triển các tổ chức tự quản xã hội phải gắn liền với quan điểm của Đảng và sự quản lý của Nhà nước. Đi cùng với đó là sự hoàn thiện khuôn khổ pháp lý để các tổ chức tự quản được hình thành, hoạt động theo nguyên tắc dân chủ nhất, bảo đảm quyền tự quyết của nhân dân đối với các vấn đề liên quan đến đời sống của chính người dân, để thực hiện dân chủ một cách thực chất.

6. Giải pháp nâng hoạt động mô hình nhân dân tự quản

Từ việc nhận thức lý luận, pháp lý và tổng kết thực tiễn, chúng ta có thể thống nhất đi đến nhận định rằng: mô hình Tổ Nhân dân tự quản đã góp phần cùng với hệ thống chính trị cơ sở khẳng định vị thế, tiếng nói và “chủ quyền Nhân dân” trong quá trình quản lý nhà nước và quản lý xã hội. Đây là một chủ trương đúng, phù hợp với yêu cầu thực tiễn đặt ra đối với việc phát huy quyền con người, quyền công dân, là thiết chế phù hợp giúp cho Nhân dân thực hiện các quyền và nghĩa vụ cơ bản đã được Hiến pháp năm 2013 và các văn bản pháp luật hiện hành ghi nhận. Để phát huy hiệu quả mô hình này, cần thực hiện các giải pháp hoàn thiện như sau:

Thứ nhất, xác định rõ vai trò phạm vi tác động của chính quyền cơ sở và các tổ chức chính trị - xã hội trong tổ chức, hoạt động mô hình tự quản theo hướng: Chính quyền và các tổ chức chính trị - xã hội có vai trò khuyến khích, hỗ trợ, giúp đỡ các mô hình tự quản, chứ không phải là hoạt động quản lý, chỉ đạo, giao việc. Các tổ chức này còn có vai trò theo dõi, giám sát hoạt động, hướng dẫn và hỗ trợ  kỹ năng, chuyên mô nghiệp vụ, bảo đảm mô hình tự quản được tổ chức và hoạt động đúng với tính chất tự quản của nó. Không hành chính hóa việc quản lý các mô hình tự quản.

Thứ hai, chính quyền và Mặt trận Tổ quốc ở cơ sở giới thiệu các mô hình tự quản hay ở các địa phương khác có điều kiện kinh tế - xã hội tương tự để cộng đồng dân cư có thể tham khảo và học tập. Có biện pháp khuyến khích, khen thưởng, tuyên dương đối với những mô hình tự quản có những đóng góp lớn cho lợi ích chung của cộng đồng.

Thứ ba, phát huy trách nhiệm và huy động sự tham gia của người được công nhận có uy tín trong cộng đồng dân cư.

Thứ tư, Gìn giữ, phát huy những luật tục tiến bộ, nhân văn, gắng với việc thực hiện và hương ước, quy ước trong hoạt động của mô hình tự quản.

Thứ năm, không để một người tham gia quá nhiều mô hình tự quản và khắc phục sự chồng chéo trong hoạt động của từng mô hình tự quản.

Thứ sáu, Cần nghiên cứu yếu tố mang tính đặc trưng của địa bàn (thành thị, nông thôn, địa bàn trọng điểm phức tạp về quốc phòng, an ninh; địa bàn ven biển, trên biển…). Từ đó, xác định nhu cầu, điều kiện hình thành tổ chức tự quản phù hợp tình hình, điều kiện xã hội phát sinh và nhu cầu của người dân như: Tổ tự quản giáo dục người nghiện ma túy; Tổ tự quản về giáo dục, hướng nghiệp đối với người được tha tù tái hòa nhập cộng đồng…

Thứ bảy, nghiên cứu yếu tố mang tính đặc thù từ mô hình cụ thể để xây dụng cơ chế đầu tư tài chính đảm bảo duy trì hoạt động mang tính ổn định.    

Thứ tám, nghiên cứu xây dựng và xác lập các quyền và nghĩa vụ của cộng đồng dân cư trong bảo vệ các nhóm vấn đề cơ bản như: Bảo vệ môi trường; ANTT… gắn với quyền lợi thiết thực và kết quả thụ hưởng từ các quyền, nghĩa vụ này, làm cơ sở vận động người dân cộng đồng trách nhiệm tham gia.

7. Kết luận

Trong điều kiện quản lý xã hội hiện nay thì việc hình thành mô hình tự quản là điều tất yếu nhằm tạo ra sức mạnh tập thể trong việc giải quyết các công việc chung liên quan đến phát triển kinh tế - xã hội và nếp sống văn minh trong cộng đồng. Vì vậy, việc nghiên cứu xây dựng mô hình tự quản trong cộng đồng dân cư là điều cần thiết phải nghiên cứu và thực hiện. Tuy nhiên, việc xây dựng mô hình nào, quy mô bao nhiêu, tổ chức và hoạt động như thế nào, sự tham gia quản lý của chính quyền đến đâu để bảo đảm tính hiệu quả, tính tự nguyện, tự giác, tự chủ của các mô hình là vấn đề đặt ra cần được nghiên cứu một cách quy mô, khoa học, để xây dựng luận cứ thực hiện phù hợp tại địa bàn tỉnh Cà Mau hiện nay với phương châm hoạt động “lấy sức dân, lo cho dân”, Tổ nhân dân tự quản phải làm tốt công tác tuyên truyền, vận động người dân thay đổi cách nghĩ, thói quen sinh hoạt, phương thức quản trị theo hướng “liên kết, hợp tác và tự quản”./.

Tài liệu tham khảo:

1. Hiến pháp năm 2013.

2. Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2019).

3. Chỉ thị số 30/CT-TW Ngày 18/2/1998 của Bộ Chính trị về xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở.

4. Nghị quyết số 18-NQ/TW ngày 25/10/2017 hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XII)

5. Nghị định số 06/2014/NĐ-CP ngày 21/01/2014 của Chính phủ về biện pháp vận động quần chúng bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội

6. Thông tư số 04/2012/TT-BNV ngày 31/8/2012 của Bộ Nội vụ hướng dẫn về tổ chức và hoạt động của thôn, tổ dân phố (sửa đổi, bổ sung tại Thông tư số 14/2018/TT-BNV ngày 03/12/2018 Thông tư số 05/2022/TT-BNV ngày 23/5/2022).  

7. Mô hình tự quản cộng đồng: Phát huy tinh thần tự nguyện của người dân. https://baophuyen.vn, truy cập ngày 12/3/2024.

 

TS. Phạm Quốc Sử - Phó Giám đốc Sở Tư pháp tỉnh Cà Mau