Trả lời: Theo quy định tại khoản 2, khoản 3 Điều 18 Luật Tiếp công dân thì người đứng đầu cơ quan trực tiếp tiếp thực hiện việc tiếp công dân ít nhất 01 ngày trong 01 tháng tại địa điểm tiếp công dân của cơ quan mình và thực hiện tiếp công dân đột xuất trong các trường hợp như: vụ việc gay gắt, phức tạp, có nhiều người tham gia, liên quan đến trách nhiệm của nhiều cơ quan, tổ chức, đơn vị hoặc ý kiến của các cơ quan, tổ chức, đơn vị còn khác nhau; vụ việc nếu không chỉ đạo, xem xét kịp thời có thể gây ra hậu quả nghiêm trọng hoặc có thể dẫn đến hủy hoại tài sản của Nhà nước, của tập thể, xâm hại đến tính mạng, tài sản của nhân dân, ảnh hưởng đến an ninh, chính trị, trật tự, an toàn xã hội.

Tại Điều 6 Luật Tiếp công dân cũng quy định nghiêm cấm các hành vi gây phiền hà, sách nhiễu hoặc cản trở người đến khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh; Thiếu trách nhiệm trong việc tiếp công dân; làm mất hoặc làm sai lệch thông tin, tài liệu do người khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh cung cấp...

Tuy nhiên, theo quy định tại Điều 9 Luật Tiếp công dân thì người tiếp công dân được từ chối tiếp người đến nơi tiếp công dân trong các trường hợp sau đây:

1. Người trong tình trạng say do dùng chất kích thích, người mắc bệnh tâm thần hoặc một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình;

2. Người có hành vi đe dọa, xúc phạm cơ quan, tổ chức, đơn vị, người tiếp công dân, người thi hành công vụ hoặc có hành vi khác vi phạm nội quy nơi tiếp công dân;

3. Người khiếu nại, tố cáo về vụ việc đã giải quyết đúng chính sách, pháp luật, được cơ quan nhà nước có thẩm quyền kiểm tra, rà soát, thông báo bằng văn bản và đã được tiếp, giải thích, hướng dẫn nhưng vẫn cố tình khiếu nại, tố cáo kéo dài;

4. Những trường hợp khác theo quy định của pháp luật.”

Căn cứ quy định trên thì ông nên xác định rõ xem trường hợp của ông có thuộc khoản 3 Điều 18 Luật Tiếp công dân hay không, nếu thuộc thì Lãnh đạo Sở A từ chối tiếp ông là không đúng. Mặt khác, cũng nên xem vấn đề của ông có thuộc trường hợp nào quy định tại Điều 9 Luật Tiếp công dân nêu trên không, nếu thuộc thì Lãnh đạo Sở A có quyền từ chối tiếp ông.

Còn việc Lãnh đạo Sở A từ chối tiếp ông mà không cho biết rõ lý do là chưa đủ cơ sở để khẳng định Lãnh đạo Sở A đúng hoặc sai, vì nội dung ông đặt ra chưa rõ, ông không có nêu rõ thời gian, nội dung đến yêu cầu tiếp công dân. Ông có thể tham khảo thêm Thông tư số 04/2021/TT-TTCP ngày 01/10/2021 của Thanh tra Chính phủ quy định quy trình Tiếp công dân tại Điều 4 quy định: “Người tiếp công dân được từ chối tiếp công dân trong các trường hợp quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 9 Luật Tiếp công dân và phải giải thích cho công dân được biết lý do từ chối tiếp, đồng thời báo cáo người phụ trách tiếp công dân. Trường hợp từ chối tiếp công dân theo quy định tại khoản 3 Điều 9 Luật Tiếp công dân thì người đứng đầu cơ quan, đơn vị phụ trách tiếp công dân ra Thông báo từ chối tiếp công dân. Thông báo được thực hiện theo Mẫu số 01 ban hành kèm theo Thông tư này”.

Như vậy, trường hợp ông đến yêu cầu tiếp công dân sau ngày 15/11/2021 thì Lãnh đạo Sở A phải giải thích cho ông biết lý do từ chối tiếp ông nếu thuộc các trường hợp quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 9 Luật Tiếp công dân và phải ra Thông báo từ chối tiếp ông nếu ông thuộc trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 9 Luật Tiếp công dân. Ngược lại, ông đến yêu cầu tiếp công dân trước ngày 15/11/2021 thì Lãnh đạo Sở A không có trách nhiệm phải giải thích rõ lý do từ chối tiếp ông. Đây là một trong những điểm mới của Thông tư số 04/2021/TT-TTCP ngày 01/10/2021 của Thanh tra Chính phủ quy định quy trình Tiếp công dân, có hiệu lực từ ngày 15/11/2021./.

Mến chào ông!

Phạm Thảo