Vi phạm pháp luật đất đai là hành vi trái pháp luật do chủ thể có năng lực hành vi thực hiện, có lỗi và xâm hại đến quan hệ đất đai được pháp luật bảo vệ. Người có hành vi vi phạm pháp luật về đất đai thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật.

Pháp luật đất đai quy định về thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai thuộc về chủ tịch UBND cấp xã. Thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai của chủ tịch UBND cấp xã được quy định tại Nghị định số 91/2019/NĐ-CP về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai.

Khoản 1 Điều 38 Nghị định số 91/2019/NĐ-CP quy về thẩm quyền của chủ tịch UBND các cấp trong việc xử phạt vi phạm hành chính như sau: “Chủ tịch UBND cấp xã có quyền: (a) Phạt cảnh cáo; (b) Phạt tiền đến 5.000.000 đồng; (c) Tịch thu các giấy tờ đã bị tẩy xóa, sửa chữa, làm sai lệch nội dung; giấy tờ giả đã sử dụng trong việc sử dụng đất; (d) Áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả: Buộc khôi phục lại tình trạng ban đầu của đất trước khi vi phạm”.

Như vậy, phụ thuộc vào mức phạt đối với hành vi vi phạm lĩnh vực đất đai để xem xét có thuộc thẩm quyền xử phạt của chủ tịch UBND cấp xã. Ví dụ, đối với hành vi lấn chiếm đất chưa sử dụng tại khu vực nông thôn, chủ tịch UBND cấp xã có thẩm quyền xử phạt đối với diện tích đất lấn chiếm dưới 0,1 hecta. Do hình thức và mức xử phạt đối với hành vi lấn chiếm đất: từ 2.000.000 đến 3.000.000 (dưới 0,05 hecta) và từ 3.000.000 đến 5.000.000 đồng (dưới 0,1 hecta).

TS. Phạm Quốc Sử